A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Đại biểu Quốc hội nói gì về Nghị quyết miễn học phí và phổ cập giáo dục

Quốc hội thảo luận về hai nghị quyết nhân văn về miễn học phí và phổ cập giáo dục mầm non, mở ra cơ hội học tập công bằng cho mọi trẻ em trên toàn quốc.

Quốc hội thảo luận về hai nghị quyết nhân văn về miễn học phí và phổ cập giáo dục mầm non, mở ra cơ hội học tập công bằng cho mọi trẻ em trên toàn quốc.

Sáng 16/6, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, các đại biểu thảo luận tại hội trường về Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về miễn, hỗ trợ học phí đối với trẻ em mầm non, học sinh phổ thông và người học chương trình giáo dục phổ thông; cùng với đó là Dự thảo Nghị quyết về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi. Hai chính sách này được kỳ vọng sẽ tạo chuyển biến tích cực trong công bằng giáo dục và an sinh xã hội.

Toàn cảnh phiên thảo luận. Ảnh: VPQH

Toàn cảnh phiên thảo luận. Ảnh: VPQH

Cần cơ chế hỗ trợ ngân sách ổn định cho địa phương khó khăn

Góp ý, đại biểu Vương Thị Hương (Đoàn Hà Giang) bày tỏ sự đồng tình và ủng hộ cao việc ban hành hai nghị quyết nêu trên, đánh giá đây là những chính sách nhân văn, thiết thực, thể hiện rõ trách nhiệm chính trị và cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong việc bảo đảm quyền học tập, công bằng tiếp cận giáo dục cho mọi công dân, chăm lo tương lai thế hệ trẻ và đảm bảo an sinh xã hội.

Với Dự thảo Nghị quyết miễn, hỗ trợ học phí, đại biểu đồng tình với chính sách hỗ trợ học phí cho trẻ em mầm non, học sinh phổ thông và người học chương trình giáo dục phổ thông tại các cơ sở giáo dục dân lập, tư thục. Quy định mức hỗ trợ do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định theo khung học phí do Chính phủ quy định là hợp lý, giúp bảo đảm tính linh hoạt và phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương, đồng thời giữ được sự thống nhất trong thực hiện chính sách trên toàn quốc.

Tại khoản 2 Điều 3 Dự thảo, quy định về kinh phí thực hiện do ngân sách Trung ương hỗ trợ đối với các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách, đại biểu bày tỏ sự đồng thuận. Từ thực tiễn tỉnh Hà Giang, hiện có gần 70.000 trẻ mầm non và gần 200.000 học sinh phổ thông, phần lớn đang học tại các cơ sở công lập trong điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, khả năng tự cân đối ngân sách hạn chế. Việc thực hiện chính sách miễn học phí theo quy định mới sẽ tạo áp lực rất lớn lên ngân sách địa phương.

Đại biểu Vương Thị Hương (Đoàn Hà Giang). Ảnh: VPQH

Đại biểu Vương Thị Hương (Đoàn Hà Giang). Ảnh: VPQH

Đại biểu đánh giá cao chủ trương tại Nghị quyết số 196 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về chuyển nguồn 6.623 tỷ đồng từ ngân sách Trung ương để hỗ trợ các địa phương thực hiện chính sách miễn, hỗ trợ học phí và các nhiệm vụ khác. Đây là quyết định kịp thời, thể hiện sự quan tâm của Trung ương đối với các địa phương, đặc biệt là miền núi, vùng sâu, vùng xa, nơi điều kiện sống của người dân còn nhiều thiếu thốn.

Để chính sách đi vào cuộc sống, đại biểu kiến nghị Quốc hội và Chính phủ cần tiếp tục tăng cường vai trò điều tiết của ngân sách Trung ương để hỗ trợ kịp thời cho các địa phương không đủ khả năng cân đối, bảo đảm phân bổ đủ ngân sách, đủ nguồn lực cho các cơ sở giáo dục, đặc biệt là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.

Với Dự thảo Nghị quyết phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi, đại biểu nhất trí cao với mục tiêu đặt nền móng phát triển toàn diện cho trẻ. Tuy nhiên, để chính sách thực sự đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả, cần giải quyết tình trạng thiếu giáo viên, cơ sở vật chất và thiết bị dạy học, đặc biệt tại các tỉnh miền núi.

Dẫn chứng từ thực tiễn, tỉnh Hà Giang có 200 trường mầm non với hơn 1.100 điểm trường lẻ. Việc tổ chức lớp học phân tán khiến nhu cầu giáo viên không chỉ phụ thuộc vào số lượng trẻ mà còn bị chi phối bởi địa hình, giao thông và yêu cầu duy trì lớp độc lập. Hiện Hà Giang có 4.761 giáo viên, trong khi nhu cầu đến năm 2030 tối thiểu là 5.771 người, tức là thiếu gần 1.000 giáo viên, tương đương 20% tổng biên chế hiện tại.

Bên cạnh đó, mặc dù đã có quy định về danh mục thiết bị dạy học tối thiểu nhưng tỷ lệ đáp ứng ở miền núi mới chỉ đạt 46%. Nhiều điểm trường còn thiếu những điều kiện cơ bản như phòng học kiên cố, đồ dùng học tập, sân chơi an toàn. Trong điều kiện đó, giáo viên khó có thể thực hiện chương trình giáo dục một cách bài bản, ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục.

Đại biểu kiến nghị Quốc hội và Chính phủ ưu tiên bổ sung biên chế giáo viên mầm non, bố trí nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cho các tỉnh miền núi, có cơ chế ngân sách Trung ương rõ ràng, ổn định, có lộ trình dài hạn để các địa phương chủ động xây dựng kế hoạch, tránh bị động trong triển khai.

Ngoài ra, đại biểu kiến nghị Dự thảo Nghị quyết cần quy định hiệu lực thi hành từ năm học 2025-2026 để các địa phương có thời gian chuẩn bị và người dân sớm được thụ hưởng chính sách. Đồng thời, Chính phủ cần sớm có hướng dẫn cụ thể về phân quyền, phân cấp và phân định thẩm quyền giữa chính quyền địa phương hai cấp khi triển khai các nội dung của chính sách.

Cách tính phổ cập và cơ chế cấp bù cần rõ ràng, hợp lý

Đại biểu Trần Thị Thu Phước (Đoàn Kon Tum) bày tỏ sự phấn khởi vì sáng cùng ngày Quốc hội đã thông qua Luật Nhà giáo và tiếp tục thảo luận hai nghị quyết quan trọng về giáo dục. Đại biểu đánh giá cao quá trình tiếp thu, giải trình ý kiến của các đại biểu Quốc hội và cơ quan thẩm tra, cho rằng các nội dung trong hồ sơ trình ra Quốc hội đã được nghiên cứu, cân nhắc kỹ lưỡng, thể hiện tinh thần cầu thị, trách nhiệm.

Góp ý với Dự thảo Nghị quyết phổ cập giáo dục mầm non, đại biểu lưu ý tại khoản 2 Điều 1, bản trình đầu kỳ họp loại trừ các cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài khỏi phạm vi áp dụng. Tuy nhiên, dự thảo trình lần này đã bỏ quy định đó. Việc bỏ loại trừ này là hợp lý trong quan điểm phổ cập toàn diện, nhưng cần làm rõ chính sách nhà nước sẽ hướng tới đối tượng này như thế nào, và tỷ lệ phổ cập sẽ tính ra sao khi bao gồm cả trẻ em tại các cơ sở có yếu tố nước ngoài.

Về mục tiêu phổ cập, đại biểu nhất trí với cách xác định trong dự thảo mới là 100% tỉnh, thành đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi. Tuy nhiên, bà lưu ý cách tính phổ cập hiện nay dựa trên tỷ lệ trẻ đến trường và hoàn thành chương trình, điều này sẽ gây khó cho các địa bàn khó khăn. Nếu tiếp cận khái niệm phổ cập theo Luật Giáo dục 2019 là “tạo điều kiện để mọi công dân trong độ tuổi được học tập”, thì việc thực hiện sẽ linh hoạt hơn, có thể thông qua nhiều hình thức hỗ trợ, không chỉ gói gọn trong lớp học chính quy.

Theo báo cáo số 773 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện còn khoảng 300.000 trẻ em mẫu giáo chưa ra lớp, chủ yếu ở vùng khó khăn. Nếu không tính kỹ, sẽ tạo nên “vùng lõm” khiến mục tiêu phổ cập khó đạt được. Do đó, cần làm rõ hơn chỉ số và cách tính để phù hợp thực tế.

Đối với Nghị quyết miễn và hỗ trợ học phí, đại biểu ủng hộ nhưng đề nghị làm rõ ba nội dung. Thứ nhất, liệu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có được quyết định mức hỗ trợ cao hơn mức trần do Chính phủ quy định hay không. Thứ hai, cơ chế cấp bù học phí cho các cơ sở công lập hiện đang thu học phí sẽ thực hiện như thế nào, ngân sách Trung ương hay địa phương đảm nhận và phương thức cấp bù ra sao. Thứ ba, hiện nay đã có 10 địa phương, trong đó có tỉnh khó khăn, đang tự thực hiện hỗ trợ học phí cho trẻ mầm non. Đại biểu đặt vấn đề các tỉnh này liệu có được ngân sách Trung ương hỗ trợ lại không.

Bà nhấn mạnh cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng trong thiết kế cơ chế chính sách để vừa động viên các địa phương nỗ lực chủ động, vừa bảo đảm sự công bằng, hài hòa trong hệ thống tài chính giáo dục quốc gia.

 

Hoàng Nhưỡng
 
Bạn thấy bài viết này thế nào?
Kém ★ Bình thường ★ ★ Hứa hẹn ★★★ Tốt ★★★★ Rất tốt ★★★★★

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết