A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Vì sao doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn ‘đứng ngoài’ dòng vốn tín dụng?

Mặc dù tăng trưởng tín dụng 5 tháng đầu năm đã khởi sắc so với cùng kỳ năm trước, song thiếu vốn và cần hỗ trợ vẫn luôn là một trong những kiến nghị hàng đầu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Theo thống kê, hiện nay, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) chiếm tới 98% tổng số doanh nghiệp, tạo ra khoảng 70% việc làm và đóng góp gần một nửa GDP quốc gia. Tuy nhiên, khu vực này chỉ tiếp cận được chưa tới 20% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống ngân hàng.

Có tới 78% SMEs không có dư nợ ngân hàng

Các chuyên gia cho biết, phần lớn các ngân hàng thương mại lựa chọn tập trung vào các khoản vay lớn – nơi mà hồ sơ tài chính rõ ràng hơn, tài sản thế chấp phong phú hơn, và chi phí thẩm định trên một đồng vốn cho vay thấp hơn.

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thông tin, tính đến cuối năm 2024, dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp tư nhân tại các tổ chức tín dụng đạt khoảng gần 7 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 14,7% so với năm 2023, chiếm khoảng 44% dư nợ tín dụng nền kinh tế. Tuy nhiên, hiện có 100 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng đối với SMEs với tổng dư nợ đạt 2,74 triệu tỷ đồng, tăng 10,7% so với cuối năm 2023, chiếm 17,6% dư nợ nền kinh tế; có 208.992 SMEs còn dư nợ. Như vậy, có tới 78% SMEs không có dư nợ ngân hàng, đồng nghĩa với việc không thể sử dụng đòn bẩy tài chính để mở rộng kinh doanh.

-5839-1750241735.jpg

Khoảng trống tài chính của SMEs ở Việt Nam ước tính khoảng 24 tỷ USD, gấp 2,11 lần mức cho vay SMEs hiện tại.

Rào cản lớn khiến nhiều SMEs dù có nhu cầu và phương án kinh doanh khả thi nhưng vẫn không thể vay được vốn, theo các chuyên gia phân tích tại Công ty Chứng khoán SHS, là do các SMEs thường gặp khó về minh bạch tài chính, thiếu tài sản đảm bảo, và quy mô vay vốn nhỏ khiến chi phí quản lý tăng cao. Trong khi đó, văn hóa tín dụng tại Việt Nam vẫn nặng về tài sản thế chấp, mà trong đó bất động sản chiếm đến 70% giá trị. Các tài sản động sản như hàng tồn kho, máy móc hay dòng tiền tương lai vẫn chưa được ngân hàng nhìn nhận đúng mức.

Một bất lợi khác của SMEs là việc thiếu "hệ sinh thái" gắn kết với ngân hàng như các doanh nghiệp lớn. Những doanh nghiệp có quan hệ sâu với ngân hàng thường không chỉ vay vốn mà còn gửi tiền, dùng dịch vụ bảo lãnh, thanh toán lương, bảo hiểm... – từ đó được ưu đãi hơn về điều kiện vay, thậm chí được hỗ trợ khoanh nợ, đảo nợ khi gặp khó khăn. Ngược lại, SMEs thường thiếu lợi thế đàm phán và dễ bị đẩy ra rìa khi môi trường rủi ro gia tăng.

Ông Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam thừa nhận, hiện nay, SMEs vẫn đang lệ thuộc lớn vào vốn ngân hàng, nhất là khi cơ chế trên thị trường vốn còn bất cập. Tuy vậy, ông Thân cũng lưu ý, ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, kinh doanh phải có lãi, phải đảm bảo an toàn vốn. Vì vậy, để ngân hàng yên tâm cho vay, doanh nghiệp phải cho ngân hàng thấy được tiềm năng phát triển của mình.

Thực tế, thị trường vốn của Việt Nam vẫn chưa phát triển đủ để trở thành điểm tựa cho SMEs. Các doanh nghiệp nhỏ chỉ chiếm chưa đến 10% vốn hóa thị trường cổ phiếu và gần như vắng bóng trong thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Điều này khiến kênh tín dụng ngân hàng tiếp tục là nguồn huy động vốn chủ yếu, dù SMEs lại bị xem là nhóm khách hàng rủi ro.

Gỡ rào cản để SMEs tiếp cận vốn

Theo đại diện FiinGroup, khoảng trống tài chính của SMEs ở Việt Nam ước tính khoảng 24 tỷ USD, gấp 2,11 lần mức cho vay SMEs hiện tại. Trong khi đó, dự toán khoảng trống tài chính của SMEs tại các nước đang phát triển chỉ cao hơn 1,23 lần các khoản vay hiện thời dành cho SMEs.

Vì vậy, các chuyên gia cho rằng nếu dỡ bỏ được rào cản tín dụng cho SMEs, hệ thống ngân hàng có thể mở rộng danh mục cho vay thêm tới 500 nghìn tỷ đồng – một dư địa không nhỏ cho cả hệ thống tài chính và nền kinh tế quốc dân.

Hiện nay, các ngân hàng TMCP tư nhân cũng đang tích cực triển khai nhiều chương trình ưu đãi tới khu vực doanh nghiệp tư nhân. Trong số các ngân hàng tích cực giải ngân cho khu vực SMEs, phân tích của Công ty CP Chứng khoán VPBank (VPBankS) cho thấy các ngân hàng có trên 40% dư nợ cho vay SMEs bao gồm: BIDV, VietinBank, MB, ACB, HDBank và TPBank. “Dù không có số liệu công bố chính thức về mức độ cho vay SMEs của MB, nhưng qua nhiều năm theo dõi MB, chúng tôi tin rằng đây là một trong những ngân hàng chủ lực trong phân khúc này”, VPBankS cho hay.

TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính – ngân hàng cho rằng, muốn khơi thông dòng chảy tín dụng cho SMEs, các ngân hàng cần tái cấu trúc mô hình hoạt động để phù hợp với SMEs. Nhà nước cần chủ động chia sẻ rủi ro để khuyến khích ngân hàng "mở lòng", theo đó thành lập các Quỹ bảo lãnh tín dụng, vận hành minh bạch hơn, phát triển quỹ đầu tư tư nhân, vốn thiên thần, quỹ đồng tài trợ cũng cần được khuyến khích phát triển để hỗ trợ SMEs trưởng thành trước khi tiếp cận nguồn vốn lớn. Đồng thời, phát triển thị trường vốn để mở thêm dòng vốn ngoài hệ thống ngân hàng như thị trường trái phiếu doanh nghiệp phân tầng, có bảo lãnh tín nhiệm từng phần, cũng là một hướng đi đáng cân nhắc.

Một điều quan trọng, SMEs cũng phải lớn lên, không chỉ mong được nâng đỡ. Cải cách môi trường kinh doanh, số hóa dịch vụ công, giảm chi phí phi chính thức là điều kiện cần. Nhưng điều kiện đủ là chính doanh nghiệp phải chịu học, chịu minh bạch, chịu thay đổi. Những SMEs có năng lực quản trị, có dòng tiền ổn định, có vị trí trong chuỗi cung ứng – đó sẽ là những cánh chim đủ lông đủ cánh để ngân hàng tin tưởng. Khi doanh nghiệp vừa và nhỏ không còn “bơ vơ”, mà được gắn kết với các doanh nghiệp lớn theo mô hình chuỗi, thì niềm tin tín dụng sẽ không còn là bài toán nan giải.

“Để tín dụng không còn là dòng chảy "chỉ tưới chỗ trũng", Nhà nước, ngân hàng và chính doanh nghiệp đều phải thay đổi. Bởi SMEs không chỉ là nhóm cần giúp đỡ, mà là lực đẩy then chốt cho một nền kinh tế năng động, tự cường và sáng tạo”, ông Hiếu cho hay.

Huyền Anh


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết