Tháo nghẽn nhân lực để Việt Nam bứt phá trên quỹ đạo công nghệ mới
“Quỹ đạo” công nghệ ở những lĩnh vực quan trọng của Việt Nam đang bước vào giai đoạn định hình có tính quyết định. Tuy nhiên việc thiếu hụt nhân lực chất lượng cao, khoảng cách đáng kể giữa cung và cầu kỹ năng lại là điểm nghẽn lớn cần tháo gỡ bằng chiến lược phối hợp, đầu tư thực chất để tránh lỡ mất “cơ hội vàng”.
Nhu cầu về nhân lực chất lượng cao có thể thấy rõ ở ngành đường sắt - một lĩnh vực quan trọng mà Việt Nam đang nỗ lực tạo nền tảng mới, nâng cấp công nghệ, phát triển công nghiệp đường sắt hiện đại.
Khoảng cách đáng kể giữa cung và cầu
Như chia sẻ của Ts. Nguyễn Minh Khoa (Trường Đại học Bách khoa Tp.HCM), trong giai đoạn 2025-2030, ngành đường sắt cần đào tạo ít nhất 35.000 nhân lực chất lượng cao. Nhu cầu nhân lực tập trung lớn nhất ở nhóm ngành kỹ thuật xây dựng, khai thác vận tải đường sắt, kỹ thuật xây dựng công trình đường sắt và tín hiệu - thông tin đường sắt.
|
Đang có khoảng cách đáng kể giữa cung và cầu kỹ năng, thiếu hụt nhân lực chất lượng cao trong nhiều lĩnh vực công nghệ quan trọng ở Việt Nam. |
Ngoài ra, theo ông Khoa, cần đào tạo nghiệp vụ cho 12.000 người đáp ứng yêu cầu vận hành, khai thác, bảo trì các tuyến đường sắt (trong đó có khoảng 7.500 người cho các tuyến đường sắt đô thị).
Ts. Nguyễn Minh Khoa chỉ rõ trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu quy hoạch 25 tuyến đường sắt vào năm 2050 và chuyển dịch sang khổ 1.435 mm, thách thức về nhân lực rất lớn do số cơ sở đào tạo chuyên sâu trong nước còn ít.
Việc thiếu hụt nhân lực chất lượng cao còn có thể thấy rõ ở một lĩnh vực quan trọng là công nghệ bán dẫn. Như tại Tp.HCM, mỗi năm chỉ có 400-500 sinh viên vừa ra trường tham gia làm việc tại các công ty vi mạch bán dẫn, đáp ứng chưa tới 10% nhu cầu theo chiến lược quốc gia.
Nói về khả năng làm chủ các công nghệ mũi nhọn của Việt Nam, đặc biệt như công nghệ bán dẫn, Ts. Bùi Xuân Minh, trưởng nhóm nghiên cứu thiết kế bán dẫn và Công nghiệp 4.0 tại Đại học RMIT, nêu rõ việc tiến vào các phân khúc có giá trị gia tăng cao như thiết kế chip và sản xuất tiên tiến đang gặp thách thức không chỉ nằm ở việc xây dựng nhà máy mà còn đối mặt tình trạng thiếu hụt nhân lực chất lượng cao.
Mặc dù vậy, Ts. Minh đánh giá kế hoạch chiến lược đào tạo 50.000 kỹ sư bán dẫn từ nay đến năm 2030 mà Chính phủ phê duyệt đã thể hiện cam kết mạnh mẽ từ cấp cao nhất khi Việt Nam đang bước vào giai đoạn mang tính quyết định, có thể trở thành thế lực đáng gờm trong cuộc đua bán dẫn ở khu vực Đông Nam Á.
Ts. Bùi Xuân Minh cho rằng Việt Nam cần tiếp cận vấn đề ở cấp độ hệ thống. “Việc đào tạo kỹ sư bán dẫn là chưa đủ. Chúng ta cần một chiến lược phối hợp, trong đó Chính phủ, doanh nghiệp (DN) và các trường đại học cần chung tay hành động”.
Vị chuyên gia này khuyến nghị cần đặt trọng tâm vào phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho công nghệ bán dẫn. “Chúng ta cần tích hợp thiết kế vi mạch, vi điện tử và vật lý bán dẫn vào chương trình đào tạo. Nhưng quan trọng hơn, cần xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa giới học thuật và DN để đào tạo ra nguồn nhân lực sẵn sàng cho công việc thực tế”.
Ngoài ra, “điểm nghẽn” nhân lực chất lượng cao còn hiển hiện ở lĩnh vực Trí tuệ nhân tạo (AI) - một trong những công nghệ cốt lõi đang định hình tương lai số tại Việt Nam. Điều này có phần bất cập từ chính các DN trong nước.
Như băn khoăn của bà Võ Thị Minh An, Đối tác sáng lập và Giám đốc điều hành khu vực châu Á-Thái Bình Dương của Công ty Janus Executive Search & Talent Advisory, công nghệ AI mang lại năng lượng và sự hào hứng. Tuy nhiên, mức độ quan tâm của DN đối với yêu cầu nhân sự có kỹ năng, khả năng ứng dụng và triển khai AI vẫn chưa tương ứng.
“Ở Việt Nam, chỉ có hai trên mười vị trí mà chúng tôi tuyển dụng hiện nay có yêu cầu liên quan đến kỹ năng AI”, bà Võ Thị Minh An nói.
Bàn về việc xây dựng lực lượng lao động hỗ trợ công nghệ số, tăng trưởng số ở Việt Nam, Ts. Sreenivas Tirumala - một chuyên gia về công nghệ thông tin, lưu ý lợi thế nhân khẩu học của Việt Nam là rất rõ ràng khi cả nước có đến 51,7% dân số dưới 34 tuổi tính đến năm 2024. Lực lượng lao động trẻ, am hiểu công nghệ này là tài sản lớn trong quá trình chuyển đổi từ sản xuất giá rẻ sang nền kinh tế số. Tuy nhiên, chỉ 28,8% người lao động có bằng cấp, chứng chỉ từ sơ cấp trở lên – điều này cho thấy khoảng cách đáng kể giữa cung và cầu kỹ năng.
Vẫn chờ đầu tư thực chất
Ts. Tirumala mong rằng các cơ sở giáo dục ở Việt Nam cần hướng tới đáp ứng nhu cầu DN trong các lĩnh vực công nghệ như công nghệ thông tin, AI, Internet vạn vật kết nối (IoT) và an ninh mạng, giúp chuẩn bị lực lượng lao động cho tương lai.
Cũng nên nhắc thêm, vừa qua Bộ Khoa học và Công nghệ đã đặt ra mục tiêu đầy tham vọng là đưa Việt Nam trở thành trung tâm hàng đầu về dữ liệu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tại Đông Nam Á vào năm 2030. Để hiện thực hóa mục tiêu này thì nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam chính là động lực cốt lõi.
Tuy nhiên, tốc độ phát triển nhanh chóng của AI, kỹ thuật số và tự động hóa đang đặt ra một thách thức lớn trước việc thiếu hụt nguồn nhân lực cần thiết ở trong nước để đảm bảo cho sự thành công trong tương lai.
Có thể nói con đường “tháo nghẽn” nhân lực chất lượng cao là rất cấp thiết khi mà “quỹ đạo” công nghệ ở những lĩnh vực quan trọng của Việt Nam đang bước vào giai đoạn định hình có tính quyết định. Điều này cũng cần vai trò, trách nhiệm của phía DN bằng đầu tư thực chất vào nguồn nhân lực chất lượng cao để tránh lỡ mất “cơ hội vàng”.
Đứng ở góc độ của một nhà đầu tư nước ngoài (FDI) có thế mạnh về công nghệ số và tự động hóa, bà Trần Ngọc Quỳnh Anh, Giám đốc nhân sự tại Bosch Việt Nam (100% vốn của Đức), đã khẳng định cam kết của phía DN trong việc đầu tư vào nguồn nhân lực chất lượng cao tại Việt Nam. Theo đó, việc phát triển một lực lượng lao động địa phương có tay nghề cao là ưu tiên hàng đầu của công ty.
“Trong nhiều năm qua, chúng tôi không chỉ đầu tư vào các hoạt động sản xuất và kinh doanh, mà còn đầu tư vào con người – những người sẽ định hình “quỹ đạo” công nghệ của Việt Nam trong nhiều thập kỷ tới. Cam kết này được xây dựng dựa trên chiến lược “Phát triển tài năng nội địa cho toàn cầu” (local-for-global) lâu dài của Bosch nhằm củng cố hệ sinh thái công nghệ của Việt Nam”, bà Trần Ngọc Quỳnh Anh bộc bạch.
Còn trở lại với “bài toán” thiếu hụt nhân lực chất lượng cao ở ngành đường sắt, Ts. Tô Thanh Tuần, Phó hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ Quốc tế LILAMA2, nhấn mạnh giải pháp then chốt chính là sự hợp tác chặt chẽ giữa 3 chủ thể là nhà trường, DN và cơ quan quản lý.
Sự phối hợp này đảm bảo DN nhận được nguồn nhân lực chất lượng cao, giảm chi phí đào tạo lại. Tuy nhiên, như mối lo của Ts. Tuần, thách thức lớn hiện nay là sự thiếu chủ động của DN, cũng như việc DN chưa thấy rõ lợi ích khi đầu tư cho đào tạo.
Thế Vinh




















