Trung Đông là khu vực từ phía đông và phía nam Địa Trung Hải đến bờ vịnh Ba Tư với diện tích 7,2 triệu km2. Đây là khu vực có trữ lượng dầu thô lớn nhất, sản xuất và vận chuyển dầu thô nhiều nhất trên thế giới.
Thị trường rộng lớn và giàu có
Vượt qua những bất ổn về địa chính trị, khu vực này có rất nhiều nước giàu có như Bahrain, Ai Cập, Israel, Kuwait, Qatar, Saudi Arabia, UAE (Các Tiểu Vương quốc Ả Rập thống nhất)… Hàng hóa nông sản ở các nước thuộc khu vực này chủ yếu đến từ nhập khẩu (ngoại trừ Israel) do địa hình chủ yếu là sa mạc, điều kiện canh tác không thuận lợi. Khu vực này có tổng sản phẩm quốc nội (GDP) rất lớn, chỉ tính riêng GDP của Saudi Arabia năm 2020 đã lên tới 700,12 tỷ USD theo số liệu thống kê từ Ngân hàng Thế giới. Các mặt hàng nông sản tiêu dùng cao cấp cũng được tiêu thụ mạnh ở thị trường giàu có này.
Ngân hàng Thế giới ước tính rằng người Hồi giáo đã chi 2.002 tỷ đô-la Mỹ vào năm 2019 cho các lĩnh vực thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm, thời trang, du lịch và truyền thông, giải trí; tăng trưởng 3,2% so với cùng kỳ năm 2018. Ngoài ra, tài sản tài chính Hồi giáo ước tính đã đạt 2.088 tỷ đô-la vào năm 2019. Chi tiêu của người Hồi giáo được dự báo sẽ phục hồi sau tác động của đại dịch Covid-19 vào năm 2022 và ước sẽ đạt 2.400 tỷ USD vào năm 2024. Trong đó, chi tiêu cho nhập khẩu nông sản, lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn, đến 80% lượng hàng nhập khẩu. Việt Nam với đặc điểm là nước có diện tích canh tác nông nghiệp lớn, nguồn nông sản dồi dào có nhiều cơ hội để thâm nhập thị trường này.
Thách thức và cơ hội
Lý giải nguyên do Việt Nam bỏ ngỏ thị trường Hồi giáo suốt 40 - 50 năm qua, ông Hoàng Bá Nghị, chuyên gia đánh giá chứng nhận các tiêu chuẩn quốc tế, Tổng Giám đốc Tổ chức chứng nhận NHO - QSCert, cho biết tỷ lệ người Hồi giáo ở Việt Nam rất thấp, chỉ khoảng 72.000 người, nên phân khúc thị trường này không được chú ý. Các doanh nghiệp trong nước lại có rất ít kinh nghiệm về thị trường cũng như sản xuất các sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn riêng của người Hồi giáo.
Hiện tại, theo báo cáo của Bộ Công Thương, có gần 1.000 doanh nghiệp Việt Nam có một số sản phẩm đáp ứng được tiêu chuẩn Halal (bộ tiêu chuẩn áp dụng thêm đối với hàng qua chế biến theo luật Đạo Hồi). Đây là những doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, lương thực, thực phẩm vào thị trường một số nước Hội giáo thời gian gần đây. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này đang gặp nhiều khó khăn do phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc... vốn đã có mặt từ rất lâu tại thị trường này.
Người Hồi giáo chỉ thích mua các sản phẩm nông nghiệp có chứng nhận Halal. |
Bà Ngọc Hằng, Văn phòng Chứng nhận Halal - tổ chức chuyên tư vấn, hỗ trợ thủ tục chứng nhận Halal cho doanh nghiệp Việt - cho rằng các điều kiện về nhãn hiệu, bao bì sản phẩm, tiêu chuẩn hàng hóa cũng như các rào cản về thuế quan, kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng ở thị trường các nước Hồi giáo không quá khắt khe như thị trường Mỹ, Nhật Bản hay châu Âu. Theo bà Hằng, các loại nông sản, thủy, hải sản của Việt Nam có thể đạt chứng nhận Halal tương đối dễ vì nó không dính tới các nguyên liệu có yếu tố từ động vật cấm kị. Ngoài ra, những sản phẩm thế mạnh của Việt Nam như các loại nông sản, ngũ cốc, điều, cà phê, chè, rau, củ, quả… là những mặt hàng được các nước Hồi giáo quan tâm.
Tuy nhiên, sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ, tập quán kinh doanh cũng như việc giao nhận ngoại thương, logistics, phương thức thanh toán khác biệt tại các quốc gia Hồi giáo hiện đang là trở ngại lớn với các doanh nghiệp Việt Nam.
Bà Ngọc Hằng đang giải đáp thắc mắc của doanh nghiệp về chứng nhận Halal dành cho hàng nông sản đi Trung Đông. |
Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường các nước Hồi giáo, Bộ Công thương đã tổ chức nhiều đợt hội thảo, tập huấn, hướng dẫn các doanh nghiệp xây dựng chiến lược tiếp cận phù hợp, sản xuất sản phẩm xuất khẩu có chất lượng, quy cách, mẫu mã phù hợp với quy định về tiêu chuẩn chất lượng và tập quán tiêu dùng của thị trường Trung Đông. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam cũng tích cực thúc đẩy hợp tác song phương, kết nối thị trường, tổ chức các hoạt động triển lãm, giới thiệu sản phẩm, xúc tiến đầu tư thông qua kênh Ủy ban hỗn hợp giữa Việt Nam và các nước trong khu vực Trung Đông hoặc thông qua cơ quan đại diện Bộ ngoại giao ở các nước sở tại.
Theo Tổng cục Hải quan, nửa đầu năm 2021 dù chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 song kim ngạch thương mại hai chiều của Việt Nam với các đối tác chủ chốt tại Trung Đông vẫn tăng 32% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 7,4 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu nông sản, lương thực, thực phẩm vào thị trường này mỗi năm trên 1 tỷ USD. Với 1,8 tỷ người (chiếm ¼ dân số thế giới), các quốc gia Hồi giáo là một thị trường nhiều tiềm năng. Dư địa xuất khẩu đối với các mặt hàng nông sản thô và qua chế biến ở các nước như UAE (Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất), Thổ Nhĩ Kỳ, Kuwait, Israel, Bahrain, Ai Cập, Qatar, Saudi Arabia…) còn rất nhiều triển vọng.
Việt Nam đã từng bước tiếp cận thị trường Trung Đông với lượng xuất khẩu hàng hóa nông sản ngày càng tăng, không chỉ là những sản phẩm thô mà cả các sản phẩm đã qua chế biến với giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, thời gian gần đây phí logistics tăng cao do tác động của đại dịch Covid-19 khiến nhiều doanh nghiệp xuất khẩu nông sản gặp khó khăn, cần Chính phủ có biện pháp hỗ trợ. Hiện tại, phí vận chuyển là 15.000 USD/container (40 feet), tăng gấp 5 lần so với trước đại dịch, tương đương 10% giá trị hàng. Có thời điểm, cước vận chuyển tăng gấp 8 đến 10 lần. |